Ứng dụng công nghệ trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình: Chính sách hỗ trợ cần thực chất và đi vào chiều sâu

Ứng dụng công nghệ trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình: Chính sách hỗ trợ cần thực chất và đi vào chiều sâu
Bà Tống Khánh Linh, Phó Giám đốc Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và Nâng cao năng lực Phụ nữ.

(PLVN) - Sử dụng công nghệ để phòng chống bạo lực gia đình (BLGĐ) đang được nhiều quốc gia hướng đến, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, để ứng dụng công nghệ số sao cho hiệu quả, cần gắn liền công nghệ với chính sách, thực tiễn nhằm hỗ trợ tốt nhất cho những nạn nhân bị bạo lực gia đình và cộng đồng tiếp cận với kiến thức phòng chống bạo lực gia đình.

Bàn sâu hơn về vấn đề này, phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam đã phỏng vấn bà Tống Khánh Linh - Phó Giám đốc Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và Nâng cao năng lực Phụ nữ (CEPEW).

Công nghệ số giúp các đối tượng đối diện với nguy cơ bị BLGĐ tiếp cận nhiều thông tin hơn

Thưa bà, là một chuyên gia đã có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu các vấn đề về ứng dụng công nghệ trong cung cấp dịch vụ công và triển khai các hoạt động công tác xã hội, theo bà những ứng dụng công nghệ để hỗ trợ phòng chống BLGĐ hiện nay có tác động thiết thực đến vấn đề BLGĐ ở Việt Nam không?

- Tác động lớn nhất của công nghệ số là gia tăng tần suất xuất hiện của thông tin, từ đó gia tăng mức độ tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, từ tăng cường tiếp cận thông tin, đến nâng cao nhận thức, rồi thay đổi hành vi, tức thực sự phát huy hiệu quả ứng dụng công nghệ, thì cần nhiều hơn chỉ ứng dụng công nghệ.

Ví dụ, trên góc độ phòng ngừa BLGĐ, công nghệ số sẽ có thể giúp các đối tượng đối diện với nguy cơ bị BLGĐ tiếp cận nhiều thông tin hơn, góp phần thúc đẩy mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Tuy nhiên tiếp cận thông tin chỉ là bước đầu.

Bước tiếp theo là cần dẫn dắt được các đối tượng này tới những nền tảng, sản phẩm giáo dục, các chương trình đào tạo về BLGĐ và ứng xử không bạo lực, hoặc nhận thức của tự thân về các quyền đầy đủ của một công dân Việt Nam. Như vậy, công nghệ số phải chỉ dấu được các đối tượng này tới các nền tảng, các đơn vị cung cấp sản phẩm hỗ trợ sâu, có thể là doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội.

Tương tự, đối với việc chống lại BLGĐ, công nghệ số cần giúp tiếp cận và chỉ dẫn đến các đơn vị hỗ trợ xử lý các vi phạm. Tiếp cận thông tin chính là mấu chốt, do vậy, vai trò của ứng dụng công nghệ là vô cùng quan trọng. Đặc biệt trong bối cảnh của Việt Nam có hệ thống thể chế dân chủ cơ sở, chính quyền được thu gọn về hai cấp, cùng mặt trận Tổ quốc và các đơn vị hội phụ nữ, đoàn thanh niên địa phương cùng tích cực tham gia bổ trợ, lan toả ứng dụng công nghệ. Chính sự phối hợp nhịp nhàng giữa ứng dụng công nghệ và cả bộ máy dân chủ ở cơ sở là nhân tố quyết định sự thành công.

Theo đánh giá của bà ứng dụng công nghệ nào sẽ phù hợp với thực tiễn Việt Nam để thúc đẩy phòng chống BLGĐ?

- Từ kinh nghiệm nghiên cứu và phân tích các vấn đề xã hội, trong đó có các vấn đề về bình đẳng giới và BLGĐ, trước khi đưa ra được biện pháp hiệu quả, chúng ta cần phải xác định đúng và nghiên cứu kỹ lưỡng đề bài. Cụ thể, chúng cần trả lời các câu hỏi sau, ví dụ:  Bước 1 cần xác định các vấn đề cụ thể; Bước 2 xác định các đối tượng chủ đạo; Bước 3 xác định biện pháp và cách thức đo lường hiệu quả.

Nếu mục tiêu chính của ứng dụng công nghệ là để thúc đẩy phòng chống BLGĐ thì các vấn đề cụ thể mà những biện pháp công nghệ cần giải quyết để thúc đẩy phòng chống BLGĐ là gì; biện pháp để giúp giải quyết tình trạng thiếu nhận thức của công chúng về vấn đề BLGĐ, hay biện pháp để giúp giải quyết thực trạng nạn nhân BLGĐ gặp khó khăn trong tiếp cận đơn vị hỗ trợ, thực trạng thiếu nhận thức về bản thân, tâm lý học, và chính sách pháp luật…

Đối với mỗi một vấn đề cụ thể, đâu là những đối tượng chủ đạo cần được nhắm tới. Ví dụ, để nâng cao nhận thức của giới trẻ, với mục tiêu cụ thể là phòng ngừa, sẽ  khác với nâng cao nhận thức của các nạn nhân, với mục tiêu cụ thể là chống BLGĐ. Mỗi nhóm đối tượng chủ đạo sẽ có những đặc điểm tâm sinh lý riêng, ảnh hưởng đến cách thức họ tiếp nhận thông tin qua công nghệ số. Cuối cùng, nên làm rõ hiệu quả cần đạt được với mỗi nhóm là gì và có thể được đo lường như thế nào.

Hiện nay, các đề xuất trên dựa vào kinh nghiệm mà CEPEW cũng như các tổ chức thực hiện công tác xã hội thường thực hiện khi thiết kế các dự án, có tên gọi kỹ thuật là mô hình cây vấn đề (Problem tree), tư duy thiết kế (design thinking) và phân tích các nhóm đối tượng liên quan (stakeholder analysis). Nói dài dòng như vậy là tôi muốn nhấn mạnh rằng, chúng ta cần nhiều biện pháp liên kết, phối hợp đa tầng, tác động đến nhiều nhóm đối tượng, thúc đẩy cả phòng và tránh.

Sự phối hợp nhịp nhàng giữa ứng dụng công nghệ và cả bộ máy dân chủ ở cơ sở là nhân tố quyết định sự thành công trong việc phòng chống bạo lực gia đình.
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa ứng dụng công nghệ và cả bộ máy dân chủ ở cơ sở là nhân tố quyết định sự thành công trong việc phòng chống bạo lực gia đình.

Bảo vệ quyền riêng tư của các chủ thể trong xây dựng và khai thác Cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ

Để phòng chống BLGĐ, bên cạnh luật, Bộ đã ban hành Kế hoạch triển khai Nghị định số 110/2025/NĐ-CP của Chính phủ về cơ sở dữ liệu phòng, chống bạo lực gia đình nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện kịp thời việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong thu thập, tạo lập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, quản lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu phòng, chống BLGĐ. Bà có nhận xét gì về Nghị định và Kế hoạch này?

- Có thể khẳng định rằng, Nghị định và Kế hoạch được ban hành là một bước tiến vô cùng quan trọng trong công cuộc phòng chống BLGĐ. Một khi đã có cơ sở dữ liệu vận hành hiệu quả, chúng ta sẽ có đầy đủ thông tin về các đối tượng là nạn nhân và có nguy cơ trở thành nạn nhân, đồng thời  sử dụng được dữ liệu để phân tích xu hướng hành vi BLGĐ, từ đó sẽ xác định rõ hơn các vấn đề cần can thiệp, đề xuất và triển khai các biện pháp được hiệu quả.

Một điểm sáng của Nghị định này đã nhấn mạnh tính liên thông dữ liệu với các cơ sở dữ liệu khác trong công tác quản lý Nhà nước. Điều 8 về kết nối chia sẻ thông tin, dữ liệu, đã cụ thể hoá các cơ sở dữ liệu chuyên ngành và các trường thông tin cần được kết nối chia sẻ. Khung chính sách rõ ràng như vậy bảo đảm cơ sở dữ liệu mới đang chuẩn bị xây dựng sẽ thực sự có thể đưa vào sử dụng, mang lại giá trị thiết thực.

Với nhu cầu kết nối, liên thông dữ liệu, đồng thời sau này là phân tích dữ liệu, việc đảm bảo cơ sở hạ tầng dữ liệu vận hành ổn định, an toàn là vô cùng quan trọng. Để giữ an ninh cho cơ sở hạ tầng dữ liệu, công tác phối hợp liên kết với các doanh nghiệp công nghệ thông tin lớn rất cần thiết. Hợp tác công – tư trong xây dựng cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ sẽ giúp cho cơ sở dữ liệu này phát triển bền vững, cập nhật hơn, đồng thời tạo lợi thế trong bảo mật hệ thống thông tin, ứng phó các nguy cơ an ninh mạng, cũng như bảo trì, đào tạo thường xuyên cho công tác vận hành.

Cũng cần biết rằng, dữ liệu về phòng, chống BLGĐ thuộc nhóm dữ liệu cá nhân nhạy cảm theo định nghĩa tại Điều 2 của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân được Quốc hội thông qua vào ngày 26/6/2025 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026. Do vậy, việc bảo đảm tính riêng tư của nhóm dữ liệu này là vô cùng quan trọng, liên quan trực tiếp tới phân quyền tiếp cận dữ liệu được quy định cụ thể tại luật.

Vì ban hành trước thời điểm Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân được Quốc hội thông qua nên trong nội dung Nghị định số 110/2025/NĐ-CP được ban hành ngày 21/5/2025 chưa nhắc đến Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân. Tuy nhiên, khi thực hiện Nghị định 110/2025/NĐ-CP đã có thể tuân thủ Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Khi xây dựng cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ, đơn vị chủ trì cần lưu ý công tác phân quyền phân cấp trong truy cập thông tin, để bảo đảm xác định rõ cơ quan quản lý Nhà nước mới là đơn vị khai thác dữ liệu và mới có quyền truy cập, sử dụng thông tin; chỉ có các cán bộ, đơn vị trực tiếp liên quan đến công tác quản lý Nhà nước về phòng, chống BLGĐ có thể tiếp cận các thông tin này. Còn doanh nghiệp là bên thứ 3 cung cấp dịch vụ, đóng vai trò vận hành, thì chỉ tập trung bảo đảm an ninh hệ thống, và không được quyền truy cập, tiếp cận thông tin nhạy cảm lưu trữ trong cơ sở dữ liệu.

Trong hợp tác công tư cần có sự phân định rõ ràng vai trò của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, cũng như cần chế tài nghiêm ngặt để bảo vệ quyền riêng tư của các chủ thể trong Cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ. Điều này là vô cùng quan trọng đối với sự an toàn, sức khỏe tinh thần, và niềm tin lâu dài của các đối tượng có dữ liệu được lưu trữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về phòng chống BLGĐ. 

Theo bà Tống Khánh Linh, ở trên thế giới có nhiều mô hình áp dụng công nghệ thúc đẩy phòng chống BLGĐ như Safetipin là một ứng dụng di động giúp người dùng đánh giá mức độ an toàn của các khu vực và tuyến đường, đồng thời cung cấp các tính năng như tìm đường đi an toàn, theo dõi vị trí và chia sẻ thông tin an toàn với bạn bè và gia đình. Dữ liệu Safetipin có thể được sử dụng để cải thiện an toàn không gian công cộng bằng cách cải thiện các chính sách phát triển và các dự án văn minh. Ví dụ, chính quyền thành phố Delhi ở Ấn Độ thu thập dữ liệu để giải quyết các khu vực có điểm an toàn thấp trong thành phố. Do đó, thành phố đã lắp đặt 5000 đèn đường và cải thiện hoạt động tuần tra của cảnh sát tại các khu vực này.

Primero/GBVIMS+ là một giải pháp công nghệ nguồn mở dành cho quản lý trường hợp liên quan đến giới. Hệ thống, bao gồm một ứng dụng di động, đang nâng cao đáng kể chất lượng chăm sóc cho những người sống sót trong các bối cảnh khẩn cấp. Ứng dụng này cho phép thu thập dữ liệu an toàn và bảo mật, chuyển tiếp trường hợp điện tử và cộng tác từ xa giữa nhân viên phụ trách trường hợp và người giám sát. Nền tảng này đã được triển khai tại Indonesia…

Theo một phân tích của UNICEF, một công nghệ và ứng dụng số có thể góp phần phòng chống BLGĐ thông qua 6 chức năng bao gồm: nâng cao nhận thức; chia sẻ câu chuyện cùng cảnh ngộ; thiết lập không gian an toàn để tố cáo hành vi BLGĐ; nhận diện và bảo vệ; hướng dẫn chi tiết; hỗ trợ nạn nhân. Hiện nay ở Việt Nam, các ứng dụng thường tập trung nhiều ở khía cạnh nâng cao nhận thức và hỗ trợ đường dây nóng. Chúng ta có thể nghiên cứu và học hỏi thêm kinh nghiệm từ các quốc gia láng giềng.

Hương Ngọc