Nhà nước thu hồi đất để làm đường, người dân được tính giá đền bù như thế nào?

(PLVN) - Bạn Phan Văn Danh (Hà Tĩnh) hỏi: Năm 2006, theo chủ trương làm đường nông thôn mới, UBND xã vận động gia đình tôi hiến đổi 40m2 đất ở để làm đường và cam kết hoàn trả một diện tích đất khác có giá trị tương đương nhưng đến nay gia đình chúng tôi chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (SDĐ) đối với thửa đất trên. Xin hỏi, nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất làm đường? Giá bồi thường đất làm đường được tính thế nào? Người dân có được thỏa thuận về giá đền bù đất làm đường không?

Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng tư vấn: Thời điểm gia đình bạn hiến đất để làm đường là năm 2006, vì vậy việc bồi thường được áp dụng theo quy định của Luật Đất đai 2003 và các văn bản có liên quan. Cụ thể, tại Điều 6 Nghị định 197/2004/NĐ-CP quy định về nguyên tắc bồi thường như sau:

Người bị Nhà nước thu hồi đất có đủ điều kiện quy định tại Điều 8 của Nghị định này thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư (UBND cấp tỉnh) xem xét để hỗ trợ. Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền SDĐ tại thời điểm có quyết định thu hồi; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng tiền.

Trường hợp người SDĐ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.

Giá được tính bồi thường đất tại thời điểm năm 2006 được xác định theo quy định tại Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP sửa đổi bởi khoản 2 Điều 4 Nghị định 17/2006/NĐ-CP như sau:

Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại, giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng đã được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư quy định và công bố; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng; trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp.

Trường hợp thực hiện bồi thường chậm được quy định như sau: Bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời điểm bồi thường do UBND cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi; Bồi thường chậm do người bị thu hồi đất gây ra, nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm bồi thường, nếu giá đất tại thời điểm bồi thường cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.

Chi phí đầu tư vào đất còn lại là các chi phí thực tế người SDĐ đã đầu tư vào đất để sử dụng theo mục đích được phép sử dụng bao gồm: tiền thuê đất trả trước còn lại, chi phí san lấp mặt bằng và một số chi phí khác liên quan trực tiếp có căn cứ chứng minh đã đầu tư vào đất, mà đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất còn chưa thu hồi được.

Năm 2006, Luật Đất đai 2003 không cho phép người dân thỏa thuận giá đền bù nếu là dự án do Nhà nước thu hồi đất hoặc dự án thuộc diện sử dụng đất vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Trong trường hợp này là làm đường nông thôn mới. Việc đền bù bắt buộc theo giá do Nhà nước quy định và người dân có thể khiếu nại nếu thấy mức giá không hợp lý.

H.Thương - Quốc Anh