"Ngàn năm trà Việt" - từ mê trà đến kể chuyện trà
(PLVN) “Ngàn năm trà Việt” là một tác phẩm tiêu biểu nằm trong Tủ sách “Văn hóa Việt” của Chibooks. “Ngàn năm trà Việt” cùng với “Việt Nam - Ăn mặc thong dong” của Đỗ Quang Tuấn Hoàng đang được dịch sang tiếng Trung, dự kiến xuất bản tại Trung Quốc vào năm 2026.
Với người Việt, trà có dấu ấn đậm nét trong đời sống từ ngàn đời. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Kỷ Hợi, Hội Tường Đại Khánh năm thứ mười (1119), Tháng năm: Rồng hiện ở hàng bán nước trà ở kinh sư”. Đây là ghi chép đầu tiên về trà trong chính sử Việt Nam. Cũng theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Tháng hai (Đinh Dậu năm thứ sáu, 1237), dời dựng điện Linh Quang đến bến Đông, gọi là điện Phong Thủy, phàm khi xa giá đi xa, trú chân ở đấy, các quan đưa đón tất dâng trầu, cau và trà cho nên tục gọi là điện Hô Trà”. Đây là công trình đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được xây dựng để phục vụ việc uống trà.
Trà/chè từ tên một loại cây và trong văn hóa Việt Nam rất nhiều địa danh có thành tố trà, chè như: Trà Bản (Quảng Ninh) nghĩa là “cái gốc của trà” vì nơi này có nghề sản xuất trà đầu tiên trong vùng; Trà Sơn (Bắc Ninh) nghĩa là “núi có trồng trà”; Hương Mính (dân gian quen gọi là Hàng Chè) nghĩa là “trà thơm”, nơi đây là phố kinh doanh trà ở kinh đô Thăng Long (nay là Hà Nội) vào thế kỷ 18 - 19; Tà Sùa (Sơn La) nghĩa là bãi trà tiếng Quan hỏa, vùng trà của người Mông… Năm 1976, các nhà khảo cổ Việt Nam đã phát hiện hạt trà còn nguyên từ khoảng 10.400 năm đến khoảng 8.560 năm cách ngày nay và rất nhiều trà cụ. Đó là di chỉ khảo cổ hang Con Moong (Thanh Hóa), nơi cư trú của người Mường.
Việt Nam hiện đứng thứ năm trên thế giới về diện tích trồng trà và thứ sáu về sản lượng trà. Các địa phương trồng trà chủ yếu là Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng, Nghệ An, Lào Cai...
Đặc biệt nhất là những rừng trà shan (Camellia sinensis var. Shan) hàng trăm năm tuổi, một nguồn gen đặc hữu của Việt Nam. Cây trà shan rừng ở Việt Nam được tìm thấy ở độ cao từ 700 - 2.800m so với mực nước biển ở các tỉnh đông bắc và tây bắc, dọc theo biên giới với Trung Hoa và Lào. Trà shan được coi là giống trà quý, “giống trà vàng của thế giới”. Dược chất trong trà shan cổ thụ cao gấp 20 - 30 lần trà công nghiệp…
“Mê uống trà nên phải lục lọi mọi thứ liên quan đến trà. Đến bất cứ đâu tôi cũng để tâm tìm cây trà, hỏi người dân cách làm trà, uống trà, những phong tục tập quán liên quan đến trà”, Đỗ Quang Tuấn Hoàng từng là một nhà báo chia sẻ. Và kết quả của hơn 10 năm đi khắp Việt Nam “đãi cát tìm vàng”, ông đã viết nên cuốn sách “Ngàn năm trà Việt”. “Ngàn năm trà Việt” được cấu trúc thành 5 chương, dẫn dắt người đọc vào một hành trình khám phá, thưởng thức và cảm nhận những giá trị tinh hoa của trà Việt một cách có hệ thống và đầy lôi cuốn.

Chương đầu tiên mang tên “Tổng quan”, nơi tác giả giới thiệu một cách bao quát về những huyền thoại. Chương này cũng phác họa nên bản đồ trà Việt Nam với những vùng trồng trà đặc trưng, những giống trà cổ thụ quý hiếm và cả sự hiện diện thú vị của trà trong các địa danh.
Chương thứ hai với chủ đề “Đất càng cao đẹp, trà càng ngon” sẽ đưa người đọc bước chân vào một cuộc du hành qua những vùng trà nổi tiếng nhất của Việt Nam, từ miền núi cao đông bắc, tây bắc với Lũng Phìn, Tủa Chùa, Suối Giàng, Tà Xùa, Phình Hồ, Mộc Châu, xuống trung du với Tân Cương, La Bằng, Thanh Ba, vào miền Trung với trà xanh xứ Nghệ, cao trà Quảng Bình, Nam tiến với Cầu Đất, Bảo Lộc…
Chương ba về “Phong tục trà độc đáo” sẽ đưa người đọc thẩm thấu văn hóa bản địa, khám phá sự hiện diện vô cùng đặc sắc của trà trong các nghi lễ quan trọng như lễ cưới, lễ tang và trong cả đời sống thường nhật của người Việt Nam. “Với đa số người Việt Nam, trà gắn bó suốt cả vòng đời. Mới sinh thì được cha mẹ hái lá trà đun nước tắm cho khỏi hăm da; lớn lên thì uống trà, ăn trà, chữa bệnh bằng trà; lễ vật của đám cưới không thể thiếu trà; chết thì được người thân rải một lớp trà khô vào áo quan rồi mới liệm để hút ẩm và khử mùi tử khí; ngày giỗ, ngày tết thì được con cháu cúng trà…”.
Chương bốn với chủ đề “Thú vui tao nhã” sẽ cho thấy những cách thưởng trà vô cùng tinh tế, cầu kỳ và đầy tính nghệ thuật của người Việt xưa và nay. Từ cầu kỳ trong cung vua phủ chúa đến bình dị nơi thôn dã. Lúc cầu kỳ thì lảy gạo của 1.000 bông sen mới ướp được một cân trà; pha trà bằng đồ gốm sứ ký kiểu đắt hơn vàng. Nhưng khi bình dị thì gọi nhau râm ran đến uống chè xanh “bốn cho”: cho chát, cho nóng, cho thơm, cho xanh.
Cuối cùng, chương năm của cuốn sách khẳng định một chân lý đã được đúc kết từ ngàn xưa: “Trà chính là thuốc”, nhấn mạnh những giá trị y học và những lợi ích sức khỏe mà trà mang lại cho con người.
Tác giả Đỗ Quang Tuấn Hoàng chia sẻ rằng trong hành trình nghiên cứu của mình, ông đã có một khám phá vô cùng quan trọng và ý nghĩa. “Càng ngày tôi càng khám phá ra rằng chính những cộng đồng dân tộc như Mông, Dao, Tày, Thái, Hà Nhì, Cao Lan, Giáy… ở những vùng thâm sơn cùng cốc mới thực sự là những cư dân trà chính hiệu. Họ không chỉ sở hữu những rừng trà cổ thụ được truyền từ đời này sang đời khác hàng ngàn năm, mà còn có cả một nền văn hóa trà vô cùng đồ sộ. Nền văn hóa này được thể hiện qua các tri thức bản địa quý báu về cách trồng trà, hái trà, sao trà, bảo quản trà, cách uống trà hằng ngày và cả những nghi lễ cúng trà linh thiêng”, tác giả cho biết.
“Ngàn năm trà Việt” là một tác phẩm tiêu biểu nằm trong Tủ sách “Văn hóa Việt” của Chibooks. “Ngàn năm trà Việt” cùng với “Việt Nam - Ăn mặc thong dong” của Đỗ Quang Tuấn Hoàng đang được dịch sang tiếng Trung, dự kiến xuất bản tại Trung Quốc vào năm 2026.