Hành vi cố tình thanh toán bằng tiền mặt để trốn thuế sẽ bị xử lý nghiêm

Hành vi cố tình thanh toán bằng tiền mặt để trốn thuế sẽ bị xử lý nghiêm

(PLVN) Bạn Doãn Hoàng (Hà Nội) hỏi: hành vi không nhận chuyển khoản để trốn thuế sẽ bị xử lý như thế nào?

Theo thông tin từ bạn đọc: Vừa qua có tình trạng một số hàng quán, hộ kinh doanh thông báo không nhận thanh toán bằng hình thức chuyển khoản. Nếu người mua vẫn muốn chuyển khoản sẽ được yêu cầu thanh toán thêm 1 khoản tiền nhỏ và được hiểu như là số % thuế VAT. Đây là hình thức né thuế, trốn thuế, không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn gây khó khăn cho người dân khi thanh toán. Xin hỏi, hành vi không nhận chuyển khoản để trốn thuế sẽ bị xử lý như thế nào?

Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng: Căn cứ Điều 6 Luật Quản lý thuế 2019 thì hành vi cố tình không kê khai hoặc kê khai thuế không đầy đủ, kịp thời, chính xác về số tiền thuế phải nộp là hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý thuế.

Như vậy, đối với hành vi chỉ nhận tiền mặt, không nhận chuyển khoản của các cửa hàng với mục đích né thuế, cố tình kê khai thuế không đầy đủ, chính xác là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trường hợp các cửa hàng không nhận chuyển khoản, chỉ nhận tiền mặt nhưng vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế; có phát hành hóa đơn theo quy định; kê khai thu nhập trung thực, chính xác để xác định nghĩa vụ thuế,... thì hành vi này là tuân thủ quy định pháp luật.

Đối với hành vi chỉ nhận tiền mặt không nhận chuyển khoản với mục đích né thuế, căn cứ Điều 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP đã quy định về xử phạt hành vi trốn thuế như sau: Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau: Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế, trừ trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 4 và khoản 5 Điều 13 Nghị định này;

Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp, không khai, khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, được miễn, giảm thuế, trừ hành vi quy định tại Điều 16 Nghị định này; Không lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp người nộp thuế đã khai thuế đối với giá trị hàng hóa, dịch vụ đã bán, đã cung ứng vào kỳ tính thuế tương ứng; lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ sai về số lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ để khai thuế thấp hơn thực tế và bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế;

Sử dụng hóa đơn không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hóa đơn để khai thuế làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm; Sử dụng chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp chứng từ; sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, giảm, số tiền thuế được hoàn; lập thủ tục, hồ sơ hủy vật tư, hàng hóa không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm;

Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng, khai thuế với cơ quan thuế;

Người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong thời gian xin ngừng, tạm ngừng hoạt động kinh doanh nhưng không thông báo với cơ quan thuế, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 10 Nghị định này.

Phạt tiền 1,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định nêu trên mà không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.

Phạt tiền 2 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP mà có một tình tiết tăng nặng.

Phạt tiền 2,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP có hai tình tiết tăng nặng. Phạt tiền 3 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định 125/2020/NĐ-CP có từ ba tình tiết tăng nặng trở lên.

Bên cạnh đó, buộc nộp đủ số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước. Trường hợp hành vi trốn thuế đã quá thời hiệu xử phạt thì người nộp thuế không bị xử phạt về hành vi trốn thuế nhưng người nộp thuế phải nộp đủ số tiền thuế trốn, tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước theo thời hạn quy định. Buộc điều chỉnh lại số lỗ, số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ trên hồ sơ thuế (nếu có).

Như vậy, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà hành vi né thuế bằng cách từ chối nhận chuyển khoản của các cửa hàng có thể bị xử phạt theo quy định nêu trên. Đối với trường hợp nghiêm trọng hơn tùy tính chất, mức độ mà hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự căn cứ theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015 về tội trốn thuế với mức phạt cao nhất lên tới 7 năm tù. 

H.Thương - Quốc Anh