Giải pháp số: 'Đòn bẩy' thay đổi nhận thức và hành vi bạo lực gia đình

(PLVN) - Khi công nghệ được kết hợp với pháp luật và sự đồng hành của cộng đồng, chúng ta không chỉ ngăn chặn bạo lực, mà còn kiến tạo một môi trường gia đình an toàn - nền tảng cho phát triển bền vững.
Hiệu quả ngăn chặn BLGĐ bị ảnh hưởng vì “số liệu thủ công”?
Năm 2012, lần đầu tiên Việt Nam thực hiện một nghiên cứu đầy đủ, toàn diện để tính toán thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình (BLGĐ) gây ra. Chỉ tính riêng BLGĐ đối với phụ nữ đã gây thiệt hại kinh tế khoảng 1,78% GDP. Đến năm 2019, cuộc điều tra quốc gia lần thứ hai ước tính bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam gây thiệt hại 1,81% GDP (tăng 0,3%), tương ứng trên 100.000 tỷ đồng/năm. Báo cáo đánh giá tác động chính sách của dự thảo Nghị định quy định cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ (Báo cáo) Bộ VH,TT&DL gửi Bộ Tư pháp do Thứ trưởng Trịnh Thị Thủy ký vào tháng 7/2024 nhấn mạnh: “BLGĐ đã và đang gây bức xúc trong dư luận xã hội, làm suy giảm các giá trị của gia đình, phá vỡ hạnh phúc gia đình”.
Cũng theo Báo cáo, việc thống kê, báo cáo thông tin về BLGĐ được thực hiện theo nhiều bước: Thôn/tổ dân phố tổng hợp các vụ BLGĐ xảy ra báo cáo về xã/phường/thị trấn; xã/phường/thị trấn tổng hợp các vụ xảy ra trên địa bàn để báo cáo bằng văn bản về Phòng Văn hóa, Thông tin. Phòng Văn hóa, Thông tin tổng hợp các vụ BLGĐ báo cáo về Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch/Sở Văn hóa và Thể thao. Sở này tiếp tục tổng hợp báo cáo về Bộ VH,TT,DL.
Quá trình tổng hợp số liệu thủ công dẫn tới độ chính xác không cao. Hơn nữa, ngoài số liệu của ngành văn hóa còn có số liệu do công an, tư pháp, lao động - thương binh và xã hội, y tế, tòa án... tổng hợp.Việc nhiều cơ quan thu thập, tổng hợp báo cáo về phòng, chống BLGĐ nhưng chưa có sự kết nối, chia sẻ dẫn đến lãng phí nguồn lực, số liệu có sự trùng lặp, rời rạc và không thể khái quát được số liệu chung cho tình hình hiện nay, theo Báo cáo.
Không chỉ vậy, báo cáo số liệu như vậy không bảo đảm chính xác, kịp thời, dẫn đến không nâng cao được hiệu lực, hiệu quả trong ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ, trong khi phần lớn người bị BLGĐ là phụ nữ. “Kết quả điều tra BLGĐ đối với phụ nữ công bố năm 2020 cho thấy, trên 90% phụ nữ bị BLGĐ không tìm kiếm sự hỗ trợ từ tổ chức, đoàn thể và chính quyền cơ sở. Điều này cho thấy, người bị BLGĐ ít nhiều chưa thực sự tin cậy vào sự bảo vệ, hỗ trợ khi họ bị BLGĐ”, Báo cáo dẫn chứng….
Từ thực tế này, Bộ VH,TT&DL nhấn mạnh việc số hóa các dữ liệu BLGĐ sẽ giúp giảm các chi phí cho giấy in, mực in, công in, công trình ký, gửi báo cáo... Mức đầu tư ban đầu cho số hóa là kênh đầu tư có lợi cao, đem lại lợi ích toàn diện cho xã hội so với hiệu quả của nó trong việc làm giảm thiểu thiệt hại kinh tế hàng nghìn tỷ mỗi năm do BLGĐ. Việc chuyển đổi số trong xây dựng, khai thác cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ không tác động tiêu cực đến kinh tế đất nước…
Chatbot - “cứu cánh” cho những người bị BLGĐ
Nền tảng số để phòng, chống BLGĐ, hướng tới một xã hội an toàn, nhân ái, vấn đề này có thể mới ở Việt Nam, nhưng đã và đang được nhiều quốc gia thực hiện. Trong thời gian đại dịch COVID-19 hoành hành, khi số lượng nạn nhân bị bạo hành, tình trạng BLGĐ có xu hướng tăng lên và nghiêm trọng hơn, các công nghệ số đã được sử dụng theo những cách sáng tạo để trợ giúp các nạn nhân.
Đơn cử như tại Mông Cổ, nơi 58% phụ nữ đã từng bị bạo hành trong đời, thì số lượng các vụ việc này đã tăng hơn 40% vào năm 2020, khiến các dịch vụ hỗ trợ, bao gồm cả đường dây nóng khẩn cấp, đều quá tải. Khi ngày càng có nhiều người tìm kiếm thông tin và các dịch vụ trực tuyến trong thời kỳ đại dịch, tại các khu vực thành thị và nông thôn Mông Cổ, xu hướng sử dụng Internet đã gia tăng. Đặc biệt, số người dùng Facebook tại Mông Cổ đã tăng từ 68% (tháng 1/2020) lên gần 80% (tháng 1/2021), được thúc đẩy chủ yếu bởi những người dùng có độ tuổi từ 25 - 45. Đây cũng là nhóm nhân khẩu học mà hồ sơ đường dây nóng của cảnh sát gắn thẻ là có số lượng vụ BLGĐ cao nhất được báo cáo.
Ở Mông Cổ, chatbot ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) được sử dụng để hỗ trợ đàm thoại và được tích hợp sẵn các kỹ thuật học sâu. Chúng được tích hợp trong Facebook Messenger, vì vậy hiện được sử dụng phổ biến rộng rãi trong người dân. Chatbot thường được sử dụng để hỗ trợ các dịch vụ khách hàng thông thường trên Internet, nhưng chính tính ẩn danh của nó là một tính năng quan trọng khi giúp đỡ nạn nhân BLGĐ. Các chatbot được phát triển bởi một nhóm các chuyên gia về giới, pháp lý, truyền thông và công nghệ thông tin. Nhóm nghiên cứu đã xem xét dữ liệu và trò chuyện với những người sống sót sau BLGĐ để cung cấp cho chatbot nội dung phong phú dưới dạng các câu hỏi thường gặp như: Những người sống sót phải chuẩn bị gì? Các lựa chọn pháp lý của họ là gì? Điều gì xảy ra với gia đình họ khi họ yêu cầu giúp đỡ?
Công nghệ này đã được chứng minh là một “cứu cánh” cho những người sống sót sau BLGĐ. Một người phụ nữ đã sử dụng chatbot để giải cứu mình khỏi mối quan hệ lạm dụng kéo dài 9 năm. Chatbot đã cung cấp cho cô thông tin về thời điểm nên rời đi, những gì cần mang theo và cách liên hệ với các dịch vụ tư vấn và khẩn cấp. Cô và 4 người con của mình đã đến nơi trú ẩn an toàn trong làn sóng COVID-19 bùng phát mạnh. Cô đã lựa chọn chatbot bởi vì nó ẩn danh, nhưng lại dễ dàng truy cập thông qua mạng xã hội… Hiện các chatbot ở Mông Cổ đang tích hợp tính năng nhắn tin văn bản (SMS) để tiếp cận người dân ở các vùng nông thôn và không có Internet.
Qua câu chuyện ở Mông Cổ có thể thấy, việc sử dụng các công nghệ số như chatbot đang được chứng minh là một công cụ bổ sung hiệu quả mà các quốc gia có thể sử dụng trong nỗ lực giải quyết BLGĐ và tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cũng như các dịch vụ tư vấn và trợ giúp khẩn cấp cho những đối tượng có nguy cơ bị bạo hành.
“Bộ não thông tin” đầy quyền năng phòng, chống BLGĐ
Từ ngày 10/7/2025, Nghị định số 110/2025/NĐ-CP về cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ được Chính phủ ban hành ngày 21/5/2025 chính thức có hiệu lực nhằm thực hiện Điều 43 của Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 (cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ là tập hợp thông tin về nội dung quản lý Nhà nước về phòng, chống BLGĐ; được liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu quốc gia khác có liên quan đến phòng, chống BLGĐ; là tài sản của Nhà nước phải được bảo đảm an ninh, an toàn chặt chẽ…).
Đây không chỉ là một văn bản pháp lý đơn thuần, mà còn là một “lá chắn” công nghệ, một “bộ não thông tin” đầy quyền năng, đánh dấu bước chuyển từ tư duy xử lý vụ việc sang quản trị dữ liệu, giúp nâng tầm công tác bảo vệ con người bằng giải pháp công nghệ hiện đại, liên thông và toàn diện. Cơ sở dữ liệu về chống BLGĐ cũng là lời khẳng định mạnh mẽ về cam kết của Việt Nam với các mục tiêu quốc tế về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái (SDG 5.2) và Công ước CEDAW.
Với Nghị định 110/2025/NĐ-CP, công tác phòng, chống BLGĐ chuyển biến từ việc xử lý từng vụ việc riêng lẻ sang quản trị dữ liệu một cách hệ thống. Điều này có nghĩa là mọi thông tin về các vụ bạo lực, người bị hại, người gây bạo lực, các biện pháp can thiệp và kết quả giải quyết sẽ được tập trung hóa, giúp tạo nên một bức tranh tổng thể, rõ ràng. Nạn nhân bị BLGĐ sẽ không còn phải "chạy vạy” nhiều nơi để trình báo, bởi hệ thống dữ liệu giúp các cơ quan liên quan như công an, y tế, tư pháp, Hội LHPN... dễ dàng chia sẻ thông tin, phối hợp hành động một cách nhịp nhàng, tránh chồng chéo hay bỏ sót.
Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt mục tiêu đưa công nghệ vào mọi lĩnh vực, trong đó có an sinh xã hội và bình đẳng giới. Do đó, không sai khi nói cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ góp phần thúc đẩy bình đẳng giới thực chất, giúp phụ nữ có cơ hội phát huy tiềm năng của mình trong một môi trường an toàn. Và có thể khẳng định, cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ không chỉ là một công cụ quản lý hiện đại, mà còn là biểu hiện sinh động của một Nhà nước pháp quyền đặt con người vào trung tâm, nơi mọi hành vi bạo lực đều được nhận diện, ghi nhận, ngăn chặn và xử lý minh bạch, công bằng.
Bộ VH,TT&DL được giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng, vận hành hệ thống quan trọng này. Tuy nhiên, để “bộ não thông tin” thực sự phát huy hiệu quả, không thể thiếu sự chung tay của cả cộng đồng. Từ mỗi cán bộ cơ sở, mỗi người làm công tác xã hội, đến từng thành viên trong gia đình và toàn xã hội, tất cả đều có vai trò trong việc cung cấp thông tin, phát hiện các dấu hiệu bạo lực và cần đầu tư đồng bộ về công nghệ, nhân lực từ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, cơ quan chức năng.
Nghị định 110/2025/NĐ-CP đặt ra 4 mục tiêu rõ ràng cho việc xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về phòng, chống BLGĐ. Thứ nhất, phục vụ công tác quản lý nhà nước và hoạch định chính sách phòng, chống BLGĐ. Thứ hai, cung cấp thông tin kịp thời để bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân, ngăn ngừa các hành vi bạo lực, xử lý vi phạm pháp luật. Thứ ba, rút ngắn thời gian và giảm nguồn lực thực hiện quy trình thu thập, báo cáo thông tin, dữ liệu về phòng, chống BLGĐ; qua đó, kịp thời cung cấp thông tin, bằng chứng phục vụ nhu cầu quản lý, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả chính sách. Cuối cùng là đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong việc thu thập, tạo lập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, quản lý, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu này; cung cấp dịch vụ công trực tuyến về phòng, chống BLGĐ; và phục vụ nhu cầu tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân…
Theo Hội LHPN Việt Nam, với dữ liệu tập trung từ "bộ não thông tin" theo Nghị định 110/2025/NĐ-CP, Hội LHPN Việt Nam có thể chủ động hơn trong việc phát hiện và can thiệp, nhanh chóng nắm bắt các trường hợp bạo lực để kịp thời tư vấn, hỗ trợ pháp lý và kết nối nạn nhân với các dịch vụ thiết yếu như y tế, tâm lý, hay nơi tạm lánh, qua đó củng cố vai trò "người đầu tiên lắng nghe, người cuối cùng hỗ trợ" của Hội.
Bên cạnh đó, với thông tin đầy đủ, Hội có thể nâng cao hiệu quả công tác hòa giải và hỗ trợ cộng đồng bằng cách phân tích sâu hơn nguyên nhân và đặc điểm từng vụ việc, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp và tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng hiệu quả hơn, góp phần thay đổi định kiến xã hội. Dữ liệu từ cơ sở dữ liệu cũng giúp Hội tham gia sâu hơn vào xây dựng chính sách, kịp thời kiến nghị khi phát hiện những bất cập, cung cấp những minh chứng cụ thể để đề xuất, góp ý xây dựng các chính sách, pháp luật về phòng, chống BLGĐ và bình đẳng giới ngày càng hoàn thiện, sát với thực tiễn cuộc sống của phụ nữ.