Để cho đất nước yên vui từ đây...

(PLVN) - Quê hương vẫn là từng đoạn đường yên bình ta bước, là tự do, là sự sống, là hiện tại, là tương lai…
Tháng 8/2025, tiết trời Hà Nội đỉnh điểm của nắng nóng, nhưng khi đọc những dòng chữ ghi dấu một giai đoạn đau thương của lịch sử dân tộc trong Bảo tàng Lịch sử Quân sự ViệtNam, tôi rùng mình ớn lạnh: “Năm 1954, để quốc Mỹ vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Đầu năm 1955, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách “Tố cộng, diệt cộng”, gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu, lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề. Đến cuối năm 1958, chúng đã giết khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt giam 466.000 người, tra tấn thành thương tật 680.000 người. Năm 1959, Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59, lê máy chém đi khắp nơi, xử lưu động những người yêu nước…”.
Tôi là con của một cặp vợ chồng cán bộ miền Nam tập kết nên những bi thương này của lịch sử luôn được cha mẹ tôi nhắc nhớ.
Năm 1954, cha tôi lên tàu tập kết ra Bắc để lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ, đứa 2 tuổi, đứa nằm trong bụng mẹ. “Quân cảng Quy Nhơn những ngày cuối năm lạnh lắm. Trời động mãi, biển nổi sóng đục ngầu, các ghe thuyền đánh cá dạt cả vào bờ chẳng dám ra khơi. Đơn vị thanh niên xung phong của chúng tôi đã đóng ở đây trước khi đi tập kết ra miền Bắc… Tiếng nói bập bẹ dễ thương của đứa con gái đã in vào tim óc tôi rồi. Thỉnh thoảng nó lại vọng lên làm cho tôi càng thêm nhớ…”, cha tôi viết trong những dòng nhật ký của chuyến hành trình tập kết.
Mẹ tôi trong bối cảnh khốc liệt của diễn biến lịch sử cũng ra Bắc sau đó. Theo lời bà kể lại với các con rằng, năm đó, ngày 20/7/1955, bà trên tay bế đứa con thơ gần 2 tuổi, bụng chửa vượt mặt, lưng đeo ba lô, cả ba mẹ con đi qua cây cầu phân chia giới tuyến. Sang đến bên kia cầu, công an giới tuyến ra đón ba mẹ con và cho biết, đêm qua trong ngôi làng ở bờ nam có gia đình một người dân đã bị giặc chôn sống cả nhà, chỉ còn mình chị phụ nữ trốn thoát bơi qua sông...
Câu chuyện này được mẹ tôi kể lại hàng năm khi đến dịp kỷ niệm ngày 30/4 thống nhất đất nước và vào cái ngày 20/7 đầy kỷ niệm với bà. Và tôi tin rằng câu chuyện đó, kỷ niệm đó đã là một trong những yếu tố khiến bà đi đến quyết định bỏ đứa con trai đã tượng hình trong bụng mẹ để không đi sơ tán mà ở lại nội thành phục vụ chiến đấu vào năm 1967 khi đế quốc Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam ác liệt, cho dù trước đó và cả sau này, cha mẹ tôi không thể có thêm người con trai nào nữa.
***
Kể lại câu chuyện nhỏ của gia đình này, tôi chỉ muốn nói rằng, với tôi và với rất nhiều người Việt Nam khác, những cống hiến, hy sinh của cha anh không phải là câu chuyện của quá khứ. Mà họ là chúng ta của ngày hôm nay.
Hơn 1 triệu liệt sĩ, gần 200 nghìn hài cốt chưa được tìm thấy, gần 300 nghìn liệt sĩ chưa xác định được danh tính, hơn 800 nghìn thương binh mang theo vết thương chiến tranh không bao giờ lành, hàng chục nghìn bà mẹ mất con, vợ mất chồng… Đó không phải là những con số. Đó là những cuộc đời “đã dừng lại” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng để cho đất nước được tiếp tục bước đi.
“Cha ông ta ngày xưa ngã xuống để cho đời ta ngày sau đổi lấy hòa bình/Giữa khói binh, ai cũng nguyện lòng hy sinh.../Để cho đất nước yên vui từ đó/Để cho đỏ thắm màu cờ tự do/Để những tiếng cười vang khắp nơi từ ngày chiến thắng…” - câu chuyện hòa bình đã và đang được viết tiếp với lòng tràn ngập sự biết ơn - “Tạ ơn những người gìn giữ nước non Đại Việt nghìn năm trước/Tạ ơn người Cha già của chúng ta trên con đường cứu nước”. (1)
Trong hành trình làm báo, tôi đã nhiều lần khóc cùng nhân vật của mình khi một dũng sĩ diệt Mỹ năm xưa rưng rưng kể về cội nguồn của việc thả hoa ở bến sông Thạch Hãn mỗi tháng 7 về. Khi vào một buổi chiều của năm 2002, tôi đã dường như quên mất lý do công việc của mình để khóc cùng một bà mẹ liệt sĩ, người đã có những năm tháng ròng rã vô vọng đi tìm hài cốt của đứa con trai duy nhất hy sinh ở chiến trường Đăk Tô năm xưa. Và mới đây thôi tháng 7/2025, khi chứng kiến những giọt lệ nức nở nhớ về đồng đội của người cựu chiến binh, nhân vật trong bức ảnh “Nụ cười chiến thắng bên Thành cổ Quảng Trị” tôi chợt hiểu những điều mình biết về lịch sử đất nước, về sự hi sinh của cha anh mãi là hạn hẹp, nhỏ bé…
Mỗi năm, đứng giữa Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9 trong chuyến hành trình tri ân về với đất lửa miền Trung, giữa từng hàng bia trắng trải dài như vô tận, tôi thấy tim mình bóp nghẹn. Bóp nghẹn bởi dòng chữ “Chưa biết tên” đầy đớn đau, trăn trở; bóp nghẹn bởi những mốc ngày tháng sống và chết của những tuổi đời còn rất trẻ. Để từ đây, tôi tự vấn, phải làm gì để đủ đầy sự biết ơn với những hy sinh “quên đi niềm riêng, quên đi cả bản thân mình” để “cho đất nước yên vui từ đó/để cho đỏ thắm màu cờ tự do”, để cho thế hệ chúng tôi có thể “viết tiếp câu chuyện hòa bình”? (2)
***
Những ngày cuối tháng 6 và đầu tháng 7 vừa qua, từ đề thi môn Văn của kỳ thi tốt nghiệp PTTH, những cụm từ “những vùng trời khác nhau”, “bầu trời Tổ quốc” được nhắc đến khá nhiều. Và từ ngày 1/7, “quê hương chung” , “quê hương cụ thể” là khái niệm được nhiều người sử dụng khi nói về vùng đất nơi cha ông mình sinh ra, “chôn nhau cắt rốn”, trong vùng đất được sáp nhập đã rộng lớn hơn.
Với nhiều người, những địa danh từng gắn bó bao đời bỗng chốc trở nên lạ lẫm. Nhưng tôi tin rằng tất cả rồi sẽ quen. Bởi quê hương không thể mất đi và quê hương cũng đâu chỉ là một danh xưng. Có một câu thơ rằng: “Còn tình quê, hồn xứ chẳng hề phai/Dẫu tên đất có đổi thay năm tháng”. Như mệnh đề “sự hy sinh của cha anh không phải là câu chuyện của quá khứ, mà họ là chúng ta của ngày hôm nay”, thì quê hương cũng vậy.
Quê hương vẫn là từng đoạn đường yên bình ta bước, là tự do, là sự sống, là hiện tại, là tương lai… Và mỗi người chúng ta vẫn đang ngày ngày lặng lẽ góp phần giữ gìn một quê hương còn mãi, trong nếp sống, trong món ăn, trong khẩu ngữ địa phương…, và nhất là trong cách chúng ta yêu thương và đối đãi với nhau giữa cuộc đời này.
(1),(2) Lời bài hát “Viết tiếp câu chuyện hòa bình” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung.