'Đánh thức' hệ thống đường thủy nội địa

'Đánh thức' hệ thống đường thủy nội địa
Ảnh. minh hoạ.

(PLVN) - Trong giai đoạn cả nước đang quyết liệt phát triển hạ tầng vận tải, từ hàng không, đường sắt, đường bộ cao tốc; mới đây Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện 113/CĐ-TTg ngày 19/7/2025 về thực hiện các giải pháp phát triển hiệu quả vận tải đường thủy (VTĐT).



Có thể lâu nay, một số người đã quên đi yếu tố Việt Nam có những điều kiện tự nhiên để trở thành một “cường quốc” VTĐT. Chúng ta có hệ thống sông ngòi với tổng chiều dài có khả năng khai thác vận tải khoảng 42.000km, đường bờ biển hơn 3.260km và nhiều cửa sông, vịnh tự nhiên thuận lợi. Đây là những yếu tố để phát triển vận tải đường thủy nội địa (VTĐTNĐ) và vận tải ven biển; là phương thức vận tải chi phí thấp, khả năng chuyên chở hàng hóa khối lượng lớn, góp phần giảm áp lực cho đường bộ, đường sắt và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Phương thức vận tải này còn ưu việt hơn các loại hình vận tải khác ở điểm thân thiện với môi trường, giảm phát thải khí nhà kính.

Theo một thống kê mà đại diện Cục Hàng hải và Đường thủy (Bộ Xây dựng) công bố hồi cuối 2024, về đường biển, chúng ta hiện có 37 cảng biển, với đội tàu biển hơn 1.000 chiếc phục vụ đường biển gần xa… Về hệ thống VTĐTNĐ, hiện có hơn 17.000km và nếu hệ thống này được đầu tư đồng bộ, tương xứng thì sự gia tăng kết nối của các cảng biển sẽ đem lại hiệu quả lớn cho logistics. Như TP HCM (cũ), vận chuyển hàng hóa qua VTĐTNĐ tại đây có thể giúp giảm được 50% chi phí hàng hóa. Trước đây, mỗi năm, TP HCM (cũ) thu về khoảng 3.000 tỷ đồng từ phí vận chuyển qua đường thủy và cảng biển. 

Ba năm trước, năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 21/2022/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển giao thông VTĐTNĐ. Tuy nhiên trong công điện mới đây, Thủ tướng đánh giá phương thức vận tải này vẫn chưa được thực sự quan tâm đầu tư, các chính sách cho phát triển kết cấu hạ tầng VTĐT chưa tương xứng nên kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển VTĐT vẫn còn bất cập; năng lực đội tàu, công tác quản lý phương tiện, chất lượng nguồn nhân lực và kết nối giữa các phương thức vận tải còn hạn chế.

Để khắc phục những tồn tại, tạo động lực mới cho ngành VTĐT phát triển nhanh và bền vững, khai thác hiệu quả tiềm năng, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần thực hiện thành công cam kết đạt chỉ tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Thủ tướng yêu cầu một số Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành rà soát, sửa đổi các quy định ngành hàng hải, đường thủy, tập trung các chính sách khuyến khích, thu hút xã hội hóa đầu tư hạ tầng, phương tiện VTĐT, nguồn nhân lực, phát triển công nghệ. Cập nhật quy hoạch kết cấu hạ tầng VTĐTNĐ, quy hoạch cảng biển bảo đảm tính liên thông, đồng bộ các phương thức vận tải khác. Ưu tiên đầu tư, cải tạo nâng cấp luồng tuyến chính, các cảng bến thủy nội địa, các cảng biển trọng điểm, đặc biệt tại các vùng kinh tế động lực (Bắc Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long). Bố trí nguồn vốn đầu tư công cho các dự án trọng điểm phát triển hạ tầng VTĐT, hàng hải. Đề xuất chính sách ưu đãi thuế, phí cho DN hoạt động trong lĩnh vực VTĐT. Có cơ chế hỗ trợ vốn vay, tín dụng ưu đãi cho đầu tư đóng mới, cải hoán phương tiện VTĐT. Có chính sách khuyến khích DN xuất nhập khẩu sử dụng dịch vụ VTĐT nhằm giảm chi phí và tăng hiệu quả chuỗi cung ứng.

Khi những chính sách này được ban hành và phát huy trong thực tế, chắc chắn sẽ “đánh thức” ngành VTĐT, cùng hạ tầng hàng không - đường sắt - đường bộ góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển nhanh hơn nữa. 

Huỳnh Phúc