Chuyện tuổi thơ ở Bản Lũy Ải

(PLVN) Ở một thung lũng nhỏ của Hòa Bình, những đứa trẻ lớn lên trong vòng tay ông bà, học cách tự nấu cơm, đi chợ, hái măng rừng… khi bố mẹ đi làm xa. Tuổi thơ của các em giản dị nhưng không hề thiếu tiếng cười, được dệt từ khói bếp, tiếng suối và những câu chuyện cổ bằng tiếng Mường.
Buổi sáng đầu tiên đến Lũy Ải, con đường ngoằn ngoèo dẫn tôi và các đồng nghiệp vào một thung lũng nhỏ cách đường lớn khoảng một cây số, nơi những mái nhà sàn nằm nép mình bên triền đồi, khói bếp bay lên như những sợi tơ mỏng. Tiếng gà gáy, tiếng chó sủa lẫn trong tiếng con suối chảy róc rách. Xa xa, mấy đứa trẻ lom khom bên bờ cỏ, tiếng cười vang lẫn trong tiếng nước vỗ vào đá. Tôi đứng lại một chút, hít một hơi thật sâu; thời gian ở đây ngỡ như trôi chậm lại, không còn vội vàng như phố thị.

Ngày đầu tiên, chúng tôi làm quen với vài người lớn trong thôn để xin phép được trò chuyện cùng bọn trẻ. Ông Khẩn - người đã sống ở đây hơn nửa đời, là một thầy mo - kể chuyện làng bằng một giọng trầm ấm, xen lẫn tiếng Mường mộc mạc: “Đây là một làng Mường cổ, trong bản chủ yếu là người dân tộc Mường. Bản này là nằm trong một cái thung lũng, chủ yếu làm nông nghiệp cơm cày cá kiếm, tự cung tự cấp”. Ông bảo, bố mẹ bọn trẻ phần nhiều đi làm ăn xa, gửi con cho ông bà trông nom. “Lũ trẻ ngoan lắm, tự làm được nhiều việc, chỉ thi thoảng mới nghịch dại thôi”, ông vừa nói vừa mỉm cười, ánh mắt đầy tự hào.
Chúng tôi bắt đầu tiếp cận bọn trẻ bằng những trò chơi quen thuộc với các em: tắm suối, đá bóng, nhảy dây. Có đứa rụt rè ban đầu, có đứa lanh lợi như thể đã quen từ lâu.
Ngọc, có một nốt ruồi dưới mắt trông rất lanh lợi, thằng bé nhanh nhẹn, còn nói nhiều nữa, là người đầu tiên dẫn chúng tôi ra suối, nơi lũ trẻ tụ tập mỗi chiều. Cạnh đó là Đăng, ít nói hơn, nhưng khi đã thân thì kể cho tôi nghe đủ chuyện: từ việc đi hái măng trên núi đến những hôm trốn ngủ trưa để đi đá bóng. “Bố mẹ em đi làm xa, em ở nhà với ông bà, với chị em. Bọn em biết nấu cơm, rửa bát, đi chợ, đi câu cá, đi tìm măng”. Giọng em bình thản, kể chuyện của một thói quen hằng ngày.

Những ngày sau, chúng tôi theo chân các em trong sinh hoạt hằng ngày. Buổi sáng, Ngọc tự nhóm bếp nấu cơm, thái rau thái thịt bằng động tác thuần thục như người lớn. Trưa, Đăng dắt trâu về, buộc vào gốc cây rồi chạy đi cắt mấy bó rau cho bà. Có hôm, Đạt, cậu bé nhỏ tuổi nhất nhóm lon ton cầm dao theo anh Huy vào rừng, hí hửng khoe những măng non vừa đào được. Tôi ngồi bên bếp, nhìn bà nội Đăng bẻ măng, vừa làm vừa dặn cháu cách chọn măng không bị đắng. Chiều đi suối về thì kéo chị Chi, chị Diệp, anh Huy và tôi đi chọc cây quất hồng bì đầu hồi nhà ông Khẩn. Mọi việc diễn ra chậm rãi, đều đặn, như một guồng quay đã quen thuộc.


Thỉnh thoảng, bữa cơm tối có thêm tiếng chuyện trò rôm rả vì các em mời chúng tôi sang ăn chung. Bát canh rau ngót ngọt nước suối, đĩa chả lá lốt hái ven đường nướng thơm phức, đĩa măng xào giòn tan - giản dị mà đầm ấm. Ông bà ít nói, chỉ hay cười và hướng ánh mắt dõi theo từng cử chỉ của cháu mình, đã kể chúng tôi rằng ông bà thương các em biết bao.
Dĩ nhiên, trong câu chuyện tuổi thơ này cũng có những khoảng trống khó lấp. Khi hỏi về bố mẹ, nhiều đứa cúi mặt hoặc trả lời ngắn gọn. Đêm xuống, giữa tiếng côn trùng đêm hè và rì rào tiếng gió đêm, Ngọc thì thầm rằng em nhớ mẹ; nhưng em quen rồi, vì biết mẹ đi làm để gửi tiền về. Nỗi nhớ ấy không làm các em yếu đuối, mà trở thành thứ nuôi dưỡng sự kiên cường: tự học cách chăm em, biết khi nào cần giúp ông bà, biết tự an ủi mình.
Ở Lũy Ải, văn hóa Mường vẫn hiện diện rõ rệt trong đời sống hằng ngày của bọn trẻ. Ông Khẩn thường cho các em học cách đọc lịch Đoi - cách tính ngày tháng truyền thống. Tôi nhớ nhất buổi chiều hôm ấy, cả nhóm trẻ ngồi quây bên ông, nghe ông kể chuyện về lịch sử của lịch Đoi, cách dùng nó như thế nào…, mắt đứa nào cũng sáng lên, tò mò hí hoáy với những thanh lịch dài như cái thước.
Trong những ngày chúng tôi ở đây, trong làng có người mất, vậy là cả đám lại lò dò chạy sang xem và giúp mọi người giã bánh dày, nặn bánh, trang trí đồ cúng.

Ngày rời Lũy Ải, con đường vẫn ngoằn ngoèo như hôm nào, nhưng lòng tôi thì nặng trĩu những kỷ niệm với các bạn nhỏ. Bọn trẻ tiễn chúng tôi ra tận nhà văn hóa đầu làng, vẫy tay chào tạm biệt cho đến khi khuất bóng xe. Trong túi tôi vẫn còn chiếc vòng tay bện bằng sợi chỉ màu, quà của Ngọc và trong đầu vẫn văng vẳng câu nói của ông Khẩn: “Bọn trẻ ở đây quen sống vậy rồi, chưa đến tuổi lao động nhưng đã phải lao động, cũng mong có ngày cha mẹ ở gần hơn.”
Tuổi thơ ở Lũy Ải không ồn ào, không dư giả vật chất, nhưng lại chan chứa yêu thương. Những người ông, người bà, vừa là gia đình, vừa là những người thầy dạy cho lũ trẻ bài học về tự lập, về tình thân, về văn hóa cội nguồn của các em. Tôi rời đi với một cảm giác biết ơn vì được thấy, được nghe và được kể lại một bức tranh tuổi thơ mà tôi chưa từng trải qua: tuổi thơ ông bà, có khói bếp, có tiếng suối và có một Lũy Ải nhỏ nằm yên trong ký ức.