Chuyện giáo dục thời nhà Nguyễn

(PLVN) - Xứ Bắc và Trung nền khoa bảng phát triển sớm, nhiều nhân tài của đất nước được phát hiện giúp dân, giúp nước, thì vùng đất phương Nam, nhân tài xuất hiện muộn. Phải đến thế kỷ 19, Chúa Nguyễn có mặt, vùng đất Gia Định mới hội nhập vào hệ thống giáo dục thi cử Nho học cả nước.
Trường Hương Gia Định - dấu ấn giáo dục nổi bật
Chính sử của nhà Nguyễn chép rằng: Mãi đến năm Đinh Mão (1807), tức là 5 năm sau khi lên ngôi Vua Gia Long mới xuống chiếu cho phép mở khoa thi Hương đầu tiên của triều đại mình. Nhưng, ở khoa thi Hương này, chỉ có sĩ tử ở xứ Đàng Ngoài cũ dự thi. 6 năm sau, vào năm Quý Dậu (1813) sĩ tử xứ Đàng Trong mới bắt đầu dự thi. Năm này, có hai trường thi Hương mới thành lập, đó là Trường Quảng Đức và Trường Gia Định.
Trường Quảng Đức kể từ năm 1819 đổi tên là Trường Trực Lệ và đến năm 1825 lại đổi tên lần nữa gọi là Thừa Thiên. Đây là một trong những trường lớn, quy tụ nhiều sĩ tử, trong đó có không ít của vùng đất Gia Định như: Phó Bảng Dương Văn Minh, Tiến sĩ Phan Hiển Đạo, Tiến sĩ Nguyễn Chánh và Phó Bảng Nguyễn Trọng Tĩnh đều dự thi Hương và đỗ đạt ở đây.
Trường Gia Định ra đời vào năm theo chiếu chỉ của Vua Gia Long nói trên và chính thức hoạt động vào tháng 7/1813. Sĩ tử đến từ các vùng như Bình Thuận (nay là tỉnh Lâm Đồng), Biên Hòa, Phiên An (Phiên An hay Phan An ở đây là tên một trong năm dinh thuộc Gia Định xưa. Dinh này tương ứng với TP HCM, Tây Ninh và một phần Long An (Tây Ninh và Long An bây giờ hợp nhất thành tỉnh Tây Ninh) Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên (3 cái tên này ngày xưa đều là một trong 5 dinh của Gia Định) đều dự thi ở đây.
Theo ghi chép của Cao Xuân Dục trong Quốc triều Hương khoa lục, trong khoa thi đầu tiên của Trường Hương Gia Định, quan Hữu Tham Tri Lễ Bộ là Lê Quýnh làm Đề Diệu, quan Cai Bạ Ngô Lương Uyển làm Giám Thí, quan Hàn Lâm Viện Khoan Hòa Bá làm giám khảo. Địa điểm Trường thi Hương Gia Định xưa bây giờ là khuôn viên Nhà Văn hóa Thanh niên TP HCM. Từ năm 1813 đến năm 1864, Trường Gia Định đã tổ chức tất cả 20 khoa thi, lấy đỗ 269 người.
Số đỗ đạt ở đây chỉ mới tính Hương Cống (học vị này tới năm 1829 đổi thành Cử Nhân), chưa kể những người đỗ Sinh Đồ (học vị này sau đổi thành Tú Tài). Số đỗ đạt này chỉ mới riêng của Trường Gia Định, còn có người ở đất Gia Định nhưng lại xin dự thi ở trường Hương khác ở Bình Định hay Thừa Thiên.
Nửa thế kỷ với 20 khoa thi từ Vua Gia Long cho đến Tự Đức, lấy 269 người đỗ, là một ghi nhận nể trọng của nhà Nguyễn trong sự phát triển giáo dục ở Đàng Trong. Trong con số đó có 20 thủ khoa, 20 á khoa, được người đương thời tán tụng như Trương Hảo Hiệp (quê ở làng Tân Khánh, huyện Tân Long (nay thuộc TP HCM) có nhiều công lao cho sự ra đời Bạch Mai thi xã - một thi xã lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với văn mạch phương Nam được thành lập giữa thế kỷ 19. Những cây bút chủ lục của Bạch Mai thi xã đã hiên ngang đứng về phía phong trào yêu nước, họ biến văn chương thành một mặt trận trong cuộc chiến chống Pháp.
Người nổi danh hơn cả là Phan Thanh Giản (người làng An Thạnh, Ba Tri, tỉnh Bến Tre nay là tỉnh Vĩnh Long), ông đỗ Cử nhân năm 1825, đỗ Tiến sĩ năm 1826, là một trong những đại thần của nhà Nguyễn) ông có công khai mạch đại khoa Nho học đầu tiên cho vùng Gia Định.
Đó là Bùi Hữu Nghĩa (Thủ khoa Nghĩa - một trong những “con rồng vàng” của Lục tỉnh). Rồi Nguyễn Thông (người Long An nay là Tây Ninh) và Nguyễn Hữu Huân (người Tiền Giang nay là Đồng Tháp), những nhà Nho học giàu lòng yêu nước, đứng lên chống lại người Pháp khi họ xâm lược Việt Nam. Rồi có thêm Huỳnh Mẫn Đạt hay Phan Văn Trị đều là những người có ảnh hưởng sâu sắc xã hội lúc đó khi họ kêu gọi chống Pháp ở Nam Kỳ Lục tỉnh.
Có 94 người giữ chức vụ quan trọng trong số 269 người đỗ đạt. Số còn lại làm các chức vụ như: Tri Huyện, Hộ Đốc, Biện lý, Huấn đạo, Giáo thụ… có nhiều người không chịu ra làm quan, trong đó nỗi bật là Phan Văn Trị. Trong 20 khoa thi nói trên, khoa cuối cùng 1864 được tổ chức tại An Giang bởi vì năm 1859, thực dân Pháp bắt đầu tấn công vào gia định và từ năm 1862 thì 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) của Nam kỳ lục tỉnh đã bị thực dân Pháp chiếm. Chế độ giáo dục và thi cử Nho học tàn lụi và thay vào đó một nền giáo dục tân học được truyền bá từ Pháp.
Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, các quan chụp ảnh ở Văn Miếu. (Nguồn: Khu di tích Văn Miếu)
Nhà Nguyễn phát triển giáo dục tìm người hiền tài
Năm Nhâm Tuất (1802) Vua Gia Long xuống chiếu xác định nhấn mạnh vai trò giáo dục để tìm kiếm nhân tài cho nước nhà: “Nhà nước cầu nhân tài, tất do đường khoa mục, tiên triều ta chế độ khoa cử đời nào cũng có cử hành…Nay thiên hạ đại định, Nam Bắc một nhà, cầu hiền chính là việc cần kíp”, “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trò, thực không thể thiếu được. Phải nên giáo dục thành tài, rồi sau thi Hương, thi Hội lần lượt được cử hành, thì người hiền tài nối nhau lên giúp việc” (theo sách Đại Nam thực lục).
Trong sách Đại Nam thực lục, Vua Minh Mệnh cũng nhấn mạnh rằng: “Đạo trị nước tất phải lấy việc gây dựng nhân tài là trước, mà phương pháp gây dựng nhân tài thì trước hết phải nuôi sẵn”.
Nhà Nguyễn đã nhanh chóng mời các sĩ phu Bắc Hà nổi danh như Phạm Đình Hổ, Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Du…để chấn hưng giáo dục.Từ kinh đô cho đến vùng sâu, vùng xa, biên ải, nhà Nguyễn rất chú trọng phát triển giáo dục.
Năm 1803, Gia Long cho đặt các chức chánh phó Đốc học ở Quốc Tử Giám, Trợ giáo ở Bắc thành. Đối với vùng Gia Định, triều đình định lệ ở mỗi xã lập một lớp học do một người có học có đức hạnh (chưa cần bằng cấp) phụ trách.
Đến năm 1804, chức học quan đã được đặt tới các dinh trấn trong cả nước. Đến năm 1821, Vua Minh Mệnh bỏ các chức danh trên và khôi phục Tế tửu - Tư nghiệp, đặt chức Học chính phụ trách việc học tập của các Tôn sinh. Năm 1838, triều đình cử hai viên đại thần kiêm lĩnh công việc của Quốc Tử Giám với các chức Tri sư - Đề điệu.
Ở các đường (Tập Thiện Đường, Dục Đức Đường…), triều đình đặt các chức Phụ đạo, Sư bảo, Tán thiện, Bạn độc, Trưởng sử để dạy bảo các hoàng tử, hoàng đệ… Chức giảng quan ở các đường, nhà Tôn học được nhà vua ban giảng quan roi dạy, cho phép đánh cả em vua nếu thấy lười biếng, hư hỏng.
Vua Tự Đức đã từng dụ: “Nhà nước dùng khoa mục để lấy nhân tài… tuy con của hoàng thân vương công cũng bắt phải học sách cổ rồi mới ra làm quan”. Nên các hoàng tử, hoàng đệ, học sinh ở nhà Tôn học và các lớp học võ, học thuốc, học ngoại ngữ ở kinh thành hằng năm cũng chịu lệ khảo hạch chặt chẽ như ở Quốc Tử Giám.
Vua Minh Mệnh có nhiều biện pháp nhằm thay thế đội ngũ học quan mà Vua Gia Long đề ra bằng những người có bằng cấp của bản triều và yêu cầu cao hơn về trình độ. Năm 1823, triều đình quy định: Giáo quan ở các phủ huyện nếu là Sinh đồ, Hương cống thì phải đủ 40 tuổi trở lên, người khác không có học hàm phải đủ 50 tuổi trở lên. Năm 1824, nhà vua cho xét tuyển Giám sinh Quốc Tử Giám để chia Huấn đạo các huyện. Năm 1830 lại cho bổ 142 Tú tài từ 40 tuổi trở lên làm Huấn đạo. Đến năm 1856, dưới thời Tự Đức, Cử nhân từng thi Hội từ 40 tuổi trở lên mới được bổ làm giáo chức. Vào cuối thời Tự Đức, chức học quan phải đạt yêu cầu là Tiến sĩ - Phó bảng hoặc Cử nhân lão thành.
Dưới thời Vua Thiệu Trị, chức Đốc học - Giáo thụ - Huấn đạo lần đầu tiên được bổ tới các tỉnh - phủ - huyện vùng biên giới xa xôi như Lạng Sơn - Cao Bằng - Thái Nguyên. Chính sách này được tiếp tục dưới thời Vua Tự Đức. Sách Đại Nam thực lục viết, năm 1874, nhà vua “chuẩn cho các tỉnh, đạo, thổ dân thuộc hạt có người muốn đi học thì liệu đặt chức dạy học… chuyên về dạy chữ, lễ phép và tiếng Kinh. Một năm sau đó, vua lại dụ cho bộ Lễ sai các tỉnh đạo có người thiểu số… chọn người làm thầy dạy, hoặc mời thầy dạy riêng, hoặc sai đến nơi giảng tập”.
Đội ngũ học quan được hưởng lương bổng thỏa đáng, xử phạt công minh, có vị trí xứng đáng trong xã hội. Từ năm 1803, Đốc học Quốc Tử Giám hàm Chánh tứ phẩm, lương 6 quan tiền, 6 phương gạo; Phó Đốc học 5 quan tiền, 5 phương gạo. Sau đó lương một Đốc học ngang Tri phủ; Trợ giáo, lương ngang Tri huyện… TS Hà Mạnh Khoa - Viện Sử học cho biết: “Đối với học sinh Quốc Tử Giám, các đời vua Nguyễn đều có chính sách quan tâm đặc biệt như: học bổng, quần áo, dầu, gạo, sách vỡ, bút mực… đầy đủ. Hằng năm, vào các dịp tế lễ hoặc mừng xuân, nhà vua đến khen thưởng cho học trò. Năm 1825, nhân dịp mừng năm mới, Vua Minh Mạng cho học sinh mỗi người 10 quan tiền, có người cho là hậu (hĩ) quá, vua nói: “… học trò là của báu của Nhà nước, ngày nay nuôi là để ngày khác dùng, há chẳng nên hậu hay sao?”.
Trong sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Nội các triều Nguyễn có ghi: Năm 1865 (Tự Đức 18, khoa thi năm Ất Sửu), cấp phu thành hai hạng, người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ được cấp 2 phu mang cờ biển, 2 phu gánh võng, 1 phu khuân đồ; Người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ, Đệ tam giáp Tiến sĩ chỉ được cấp 2 phu mang cờ biển, 2 phu gánh võng. Có khi triều định còn lệnh cho các quan địa phương cử 10 đến 20 lính tháp tùng các Tiến sĩ về quê nhà. Khi về đến làng, các Tiến sĩ được dân chúng nô nức chào đón, họ ở đây chừng 2 tháng theo quy định rồi lại trở về kinh đô chờ triều đình bổ dụng.