Bàn về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

(PLVN) - Giao dịch dân sự (GDDS) vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội là giao dịch mà mục đích hoặc nội dung của nó trái với các quy định pháp luật không cho phép hoặc đi ngược lại các chuẩn mực đạo đức được xã hội thừa nhận. Nói cách khác, đây là những giao dịch không được pháp luật công nhận và không có hiệu lực pháp lý.
Theo Luật sư Nguyễn Thị Trang - Đoàn Luật sư TP Hà Nội, tại Điều 123 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, GDDS không chỉ giới hạn ở các quan hệ dân sự thuần túy mà còn áp dụng theo nghĩa rộng, bao gồm các giao dịch trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình, miễn là không trái với các quy định chuyên ngành. Điều khoản này định nghĩa rõ ràng về “điều cấm của luật” và “đạo đức xã hội”. Cụ thể: “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”; “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”.
Quy định tại Điều 123 BLDS 2015 bao gồm hai phạm trù riêng biệt: (i) GDDS có mục đích hoặc nội dung vi phạm điều cấm của luật; và (ii) GDDS có mục đích hoặc nội dung trái đạo đức xã hội.
Đối với phạm trù đạo đức xã hội, trên thực tiễn, một số chuẩn mực đạo đức đã được luật hóa trong BLDS 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật liên quan khác. Khi chuẩn mực đạo đức đã được luật hóa thành quy định cấm cụ thể, việc xử lý giao dịch sẽ căn cứ trực tiếp vào quy định pháp luật đó, thay vì chỉ xem xét dưới góc độ đạo đức thuần túy. Chỉ trong trường hợp giao dịch vi phạm chuẩn mực đạo đức chưa được luật hóa mới cần đánh giá xem có trái đạo đức xã hội hay không.
Từ phân tích trên, việc đánh giá giao dịch vô hiệu theo Điều 123 BLDS 2015 không chỉ dừng ở nội dung khách quan (vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội) mà còn bao gồm yếu tố chủ quan, tức là ý chí của các bên khi xác lập giao dịch, cụ thể là mục đích vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Mục đích của GDDS được hiểu là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch, dựa trên lý thuyết pháp lý dân sự và các quy định liên quan tại Điều 117 BLDS 2015 (về điều kiện có hiệu lực của GDDS).
Để xác định nội dung giao dịch, cần căn cứ vào thỏa thuận của các bên về đối tượng, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bên. Từ đó, đánh giá xem đối tượng, quyền và nghĩa vụ có vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội hay không. Đồng thời, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng giúp xác định mục đích khi xác lập và thực hiện giao dịch.
Mặt khác, trong BLDS 2015, các quy định liên quan đến “mục đích” thường được diễn đạt ngắn gọn như “mục đích của GDDS...” (điểm c khoản 1 Điều 117), hoặc “GDDS có mục đích và nội dung...” (Điều 123), nhưng thực chất đây là cách diễn đạt tắt, vì mục đích thuộc về chủ thể xác lập giao dịch chứ không phải tự thân giao dịch. Mục đích của chủ thể thường được thể hiện qua nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong một giao dịch, mục đích của các bên có thể trùng khớp hoặc khác biệt. Do đó, có thể xảy ra trường hợp mục đích của một hoặc cả hai bên vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội, trong khi nội dung, đối tượng, quyền và nghĩa vụ không vi phạm.
Về thời hiệu, khác với các trường hợp vô hiệu tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 BLDS 2015 (thời hiệu yêu cầu tuyên bố vô hiệu là 2 năm), vô hiệu theo Điều 123 không bị giới hạn thời gian. Các bên hoặc người có quyền lợi liên quan có thể yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu bất cứ lúc nào, theo quy định tại khoản 3 Điều 132 BLDS 2015.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu theo Điều 123 được chứng minh là hợp lý, cơ quan tài phán phải chấp nhận, bất kể giao dịch chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong và dù thời gian xác lập đã lâu. Tuy nhiên, cần cân nhắc các yếu tố thay đổi từ lập pháp, hành pháp hoặc thực tiễn xã hội (như sự biến đổi về bản chất sự vật, hiện tượng), để bảo đảm quyết định phù hợp. Trong trường hợp này, phải căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản tại Điều 3 BLDS 2015 và các luật liên quan khác, nhằm thích ứng với sự vận động của đời sống xã hội.
Ngoài ra, theo định nghĩa tại Điều 123 BLDS 2015, khi giao dịch dẫn đến việc thực hiện hành vi mà luật không cho phép, giao dịch sẽ bị coi là vi phạm điều cấm của luật. Tuy nhiên, không nên đồng nhất mọi trường hợp vượt quá giới hạn quyền dân sự (theo Điều 10 BLDS 2015 về không lạm dụng quyền) với vi phạm điều cấm, mà cần xem xét các quy định liên quan để tránh nhầm lẫn giữa “vượt quá” và “chưa vượt quá” giới hạn.
Trong giao dịch có phần nằm trong giới hạn quyền và phần vượt quá, phần trong giới hạn vẫn có hiệu lực nếu có thể tách biệt và phù hợp với ý chí các bên. Hơn nữa, nếu giao dịch xác lập có phần vi phạm điều cấm nhưng khi thực hiện, các bên không thực hiện phần vi phạm đó, thì kết quả thực hiện vẫn được công nhận.